Chồng lấn trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là thực trạng mà đến nay vẫn chưa được giải quyết khi mà các văn bản pháp luật về Sở hữu trí tuệ còn hạn chế và chưa toàn diện giữa một nền kinh tế đang phát triển và đòi hỏi sự bảo hộ cao đối với tài sản trí tuệ. Trên thực tế, chồng lấn trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thường xảy ra ở 02 dạng:
(1) Xảy ra với sự đồng nhất về chủ thể quyền: Chủ thể quyền được nhân đôi quyền lợi bằng cách được hưởng theo hai cơ chế bảo hộ khác nhau cho cùng một đối tượng;
(2) Xảy ra giữa các chủ thể khác nhau cho cùng một đối tượng theo các cơ chế bảo hộ khác nhau.
Nguyên nhân dẫn đến sự chồng lấn trong việc bảo hộ quyền SHTT
Thứ nhất, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp có những điểm tương đồng nhất định về khái niệm và có sự giao thoa về điều kiện xác lập bảo hộ. Cả ba đối tượng nói trên đều được định nghĩa bằng cách mô tả, cụ thể cả ba được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó. Ví dụ như một “logo” có thể đáp ứng điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu và cả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Khi đó, chủ sở hữu của logo có thể đăng ký bảo hộ dưới hình thức tác phẩm mỹ thuật ứng dụng tại Cục Bản quyền tác giả và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, hiện nay, pháp luật bảo hộ cả nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp đều có thể được thể hiện dưới hai dạng hình khối hay không gian ba chiều và cả dạng mặt phẳng hai chiều.
Thứ hai, chủ thể quyền luôn có mong muốn mở rộng phạm vi quyền và kéo dài sự bảo hộ độc quyền của mình đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Nhược điểm của bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp là mất khá nhiều thời gian, quá trình thẩm định khó khăn và có thể bị từ chối. Trong khi đó, bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả thì đối tượng cần được bảo hộ không phải trải qua quá trình thẩm định và thời gian thường chỉ mất 15 ngày làm việc. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ đối với nhãn hiệu có giá trị hơn so với cơ chế bảo hộ đối với quyền tác giả, thời hạn bảo hộ là không xác định nếu chủ thể thực hiện quyền gia hạn đối với văn bằng bảo hộ nhãn hiệu. Vì vậy, để tối ưu hóa quyền lợi của mình đối với đối tượng thuộc sở hữu và cần được bảo hộ thì chủ sở hữu tiến hành đăng ký bảo hộ ở cả hai cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hai hình thức bảo hộ khác nhau.
Thứ ba, mong muốn hợp thức hóa hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động kinh doanh cạnh tranh của các cá nhân, tổ chức ngày càng tăng, kèm theo đó là giá trị thương mại của tài sản sở hữu trí tuệ vô cùng to lớn trên thị trường hiện nay. Chính giá trị mà quyền sở hữu trí tuệ mang lại cao, nên các cá nhân, tổ chức luôn đầu tư rất lớn trong việc tạo lập nên những giá trị này nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Vì thế, các đối thủ cạnh tranh luôn muốn sử dụng tài sản trí tuệ đã được đầu tư tạo lập và có danh tiếng để quảng bá cũng như khai thác triệt để lợi ích mà nó đem lại cho hoạt động kinh doanh của mình. Lợi dụng tình trạng giao thoa giữa nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp để hợp thức hóa việc sử dụng thành quả đầu tư của đối thủ cạnh tranh, các chủ thể này đã tìm kiếm cơ chế bảo hộ khác cho cùng một đối tượng. Trong trường hợp này, nếu chúng đáp ứng được cả các điều kiện của kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu thì đều có khả năng được bảo hộ bằng quyền đối với cả hai hình thức này và ranh giới phân biệt giữa hai hình thức bảo hộ dường như bị xóa mờ.
Thứ tư, quy định của pháp luật hiện hành không thật sự hiệu quả. Quy định pháp luật hiện vẫn chưa làm rõ được ranh giới giữa các đối tượng gây ra sự tương đồng về điều kiện xác lập quyền. Pháp luật về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu có quy định về dấu hiệu trùng hoặc không có sự phân biệt đáng kể giữa các kiểu dáng công nghiệp khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn, ngày ưu tiên sớm hơn ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu. Ngoài ra, tính mới của kiểu dáng công nghiệp là việc nó có sự khác biệt đáng kể với những kiểu dáng công nghiệp đã bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở ngoài nước trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên. Như vậy, vấn đề đặt ra là việc cả hai chủ thể nộp đơn cùng một ngày và theo thông lệ chung chỉ có thể căn cứ vào ngày nộp đơn và Luật cũng không quy định về trường hợp giải quyết khi một đối tượng được nộp đơn cùng ngày với hai hình thức bảo hộ khác nhau. Mặt khác, trên thực tiễn, việc so sánh trong quá trình thẩm định chỉ thực hiện đối với các đối tượng đăng ký cùng hình thức bảo hộ. Điều này dẫn đến tình trạng cấp bằng cho cả hai chủ thể, gây ra hiện tượng xung đột quyền trong quá trình sử dụng sau này.
Thứ năm, chưa có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp chịu sự quản lý và thẩm quyền xác lập thuộc về Cục Bản quyền tác giả và Cục Sở hữu trí tuệ. Các đối tượng được bảo hộ dưới hình thức khác nhau và được xác lập bởi các cơ quan khác nhau. Do đó, nếu như các cơ quan không có sự phối hợp thì sẽ xảy ra rất nhiều vấn đề. Hiện nay, về mặt lý thuyết quy định các cơ quan phối hợp thực hiện việc quản lý quyền sở hữu trí tuệ nhưng không có quy định cụ thể, cũng như chưa có cơ chế thực hiện rõ ràng.
Các loại chồng lấn trong bảo hộ quyền SHTT
Chồng lấn trong bảo hộ quyền SHTT có thể được hiểu là việc chủ thể quyền (hoặc chủ sở hữu quyền) yêu cầu nhiều hơn một hình thức bảo hộ cho một đối tượng bảo hộ hoặc yêu cầu sự bảo hộ liên tục từ cơ quan bảo hộ (ví dụ, sau khi hết thời hạn bảo hộ theo sáng chế thì tiếp tục yêu cầu được bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu hoặc quyền tác giả…)8. Nói cách khác, chồng lấn trong việc bảo hộ quyền SHTT là sự tích chứa các quyền (cumulation of rights) SHTT, theo đó người ta có thể yêu cầu việc bảo hộ bổ sung dưới 2 hoặc nhiều hình thức (chế định) bảo hộ, hoặc yêu cầu sự lấp đầy các lỗ hổng trong việc bảo hộ dưới một hình thức bảo hộ bằng một hoặc nhiều hình thức bảo hộ khác9.
Về cơ bản, sự chồng lấn trong việc bảo hộ quyền SHTT xảy ra trong những tình huống sau:
(1) Chồng lấn về các đối tượng được bảo hộ, nghĩa là đối tượng được bảo hộ vốn được bảo hộ theo một chế định nhất định thì nay dần chuyển sang bảo hộ theo một chế định khác;
(2) Chồng lấn về bản chất của quyền SHTT, điều này xảy ra khi ranh giới dùng để phân biệt các quyền SHTT trở nên ít mang tính phân biệt;
(3) Chồng lấn về các nguyên tắc pháp lý, nghĩa là có sự thống nhất, hoà nhập của các quy định và nguyên tắc pháp lý về SHTT ở cả hai cấp độ: Luật quốc gia và Luật quốc tế;
(4) Chồng lấn khi có sự tích chứa quyền (như đã đề cập ở trên) khi chủ thể quyền yêu cầu biện pháp bảo hộ bổ sung cùng với biện pháp mình đang được hưởng.
Từ 4 loại chồng lấn cơ bản trên, dẫn đến những tình huống chồng lấn cụ thể như sau: Giữa nhãn hiệu hàng hoá (NHHH) với bản quyền; giữa sáng chế và bản quyền; giữa sáng chế và NHHH; giữa sáng chế, bản quyền, NHHH; giữa NHHH và tên miền; giữa bản quyền và kiểu dáng công nghiệp (KDCN); giữa KDCN và NHHH; giữa bản quyền, NHHH, KDCN; giữa giống cây trồng mới và sáng chế; giữa sáng chế và bí mật thương mại; giữa giống cây trồng mới và bí mật thương mại; giữa giống cây trồng mới, bí mật thương mại, sáng chế.
Những vấn đề nảy sinh do chồng lấn trong công tác bảo hộ quyền SHTT
Chồng lấn trong bảo hộ SHTT có thể phá vỡ cấu trúc tổng thể của hệ thống SHTT và có thể:
– Xóa mờ các ranh giới của các chế định bảo hộ SHTT;
– Làm cho bản thân các đối tượng SHTT được bảo hộ trở nên ít mang tính phân biệt hơn;
– Gây ra các chi phí không cần thiết cho chủ sở hữu quyền, chủ thể quyền, các bên tham gia tố tụng, bên thứ ba và công chúng;
– Đòi hỏi việc thiết lập các lý thuyết và nguyên tắc mới để giải quyết vấn đề chồng lấn trong bảo hộ quyền SHTT;
– Gây khó khăn cho các cơ quan thực thi (hành chính, hình sự hoặc tư pháp) trong việc giải quyết các vụ việc về SHTT có yếu tố chồng lấn;
– Gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh và lạm dụng việc bảo hộ quyền một cách thái quá.
Kiến nghị giải pháp.
Để hạn chế tình trạng chồng lấn trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), cần xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp về pháp luật, quản lý và nhận thức. Theo chúng tôi cần tiến hành thực hiện các công việc sau:
1. Hoàn thiện khung pháp luật về sở hữu trí tuệ
- Rà soát và đồng bộ hóa pháp luật: Đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến SHTT, đặc biệt là giữa Luật SHTT, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh và các luật chuyên ngành.
- Cụ thể hóa tiêu chí phân định quyền: Quy định rõ ràng và minh bạch hơn về các tiêu chí xác định quyền SHTT, đặc biệt là đối với các đối tượng có nguy cơ chồng lấn như nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý.
- Xây dựng cơ chế ưu tiên: Thiết lập các quy tắc ưu tiên giữa các đơn đăng ký có khả năng chồng lấn, ví dụ: ưu tiên nguyên tắc nộp đơn đầu tiên hoặc nguyên tắc sử dụng trước.
2. Tăng cường hiệu quả thực thi quyền SHTT
- Nâng cao năng lực cơ quan quản lý: Đào tạo chuyên sâu cho các cơ quan xử lý đơn đăng ký và cơ quan thực thi quyền (Tòa án, Thanh tra Bộ KH&CN, Cục SHTT) để phát hiện và giải quyết các trường hợp chồng lấn.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung: Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về SHTT trực tuyến, cho phép tra cứu dễ dàng và giảm thiểu xung đột khi đăng ký quyền SHTT.
- Tăng cường hợp tác quốc tế: Tham gia và tận dụng các cơ chế hợp tác quốc tế như WIPO hoặc ASEAN để học hỏi kinh nghiệm và giải quyết các tranh chấp xuyên biên giới.
3. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của chủ thể
- Tuyên truyền, giáo dục: Tổ chức các chương trình phổ biến kiến thức về SHTT cho doanh nghiệp và cá nhân nhằm hiểu rõ quyền và trách nhiệm liên quan.
- Khuyến khích doanh nghiệp kiểm tra trước khi đăng ký: Doanh nghiệp nên thực hiện tra cứu kỹ lưỡng trước khi đăng ký để tránh trùng lặp hoặc xung đột với quyền của bên thứ ba.
4. Ứng dụng công nghệ trong quản lý SHTT
- Áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI): Sử dụng AI để hỗ trợ phân tích và phát hiện khả năng chồng lấn trong quá trình thẩm định đơn đăng ký.
- Triển khai blockchain: Đưa blockchain vào quản lý SHTT để đảm bảo tính minh bạch, không thể chỉnh sửa, giúp theo dõi nguồn gốc và trạng thái quyền SHTT.
5. Tăng cường chế tài xử lý vi phạm
- Xử phạt nghiêm minh: Tăng mức xử phạt hành chính hoặc hình sự đối với các hành vi cố ý đăng ký quyền SHTT chồng lấn hoặc lạm dụng quyền để gây thiệt hại cho bên khác.
- Bồi thường hợp lý: Quy định rõ ràng về cơ chế bồi thường thiệt hại đối với các tranh chấp SHTT, đặc biệt khi quyền chồng lấn gây ra thiệt hại thực tế.
Những giải pháp trên cần được triển khai đồng bộ và liên tục, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng để đảm bảo hiệu quả trong việc hạn chế chồng lấn quyền SHTT.
Để tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Mời bạn đọc tham khảo các bài viết khác Tại đây.
Hoặc liên hệ với Luật Duy Hưng bằng một trong các cách thức sau để được tư vấn trực tiếp.
- VPGD Hà Nội: Số 55 – Lô C1, phố Nguyễn Công Thái, KĐT Đại Kim – Định Công, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. (Xem đường đi)
- Chi nhánh Hà Nam: Xóm 8, thôn Thịnh Đại, xã Đại cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam (Xem đường đi)
- Hotline (Zalo) tư vấn Miễn Phí: 0964653879 – Zalo: Luật Duy Hưng – Email: luatduyhung@gmail.com
|
Rất hân hạnh được phục vụ Quý khách hàng!
Trân trọng./.